image banner
Trường THCS Chu Văn An
ĐÔI NÉT VỀ THẦY GIÁO CHU VĂN AN
anh tin bai
Sơ lược về tiểu sử Nhà giáo Chu Văn An.
 Chu Văn An là nhà giáo và nhà thơ, sinh ngày 6-10-1292 tại xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội, qua đời năm 1370. Ông đã đỗ Thái học sinh. Đời Trần Minh Tông, ông làm việc ở Quốc Tử Giám, phụ trách việc giảng kinh cho Thái tử và biên soạn sách. Đời Trần Dụ Tông, Chu Văn An đang làm quan tại triều đình, thấy chính sự bại hoại, ông đã viết "Thất trảm sớ" xin chém đầu 7 gian thần. Vua không nghe, ông bèn từ quan, về ở ẩn tại huyện Chí Linh (Hải Dương). Từ đó ông chỉ làm thơ văn và dạy học. Học trò củaChu Văn An có nhiều người hiển đạt như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát... Sau khi mất, ông được đưa vào thờ ở nhà Văn Miếu (Hà Nội). Ông sáng tác tập thơ chữ Hán "Tiều ẩn thi tập", một số bài thơ còn chép ở trong "Toàn Việt thi lục" do Lê Quý Đôn sưu tập. Ngoài ra, Chu Văn An còn cùng với Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố là những người đầu tiên dùng chữ nôm để sáng tác văn học. Tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đều có đường phố mang tên Chu Văn An.
anh tin bai
Chu Văn An - Người Thầy của muôn đời

Chuyện kể rằng, bà Lê Thị Chiêm - mẹ của Chu Văn An người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội, vào những ngày nông nhàn, từ sáng sớm bà đã đi chợ, cái thúng úp trên vai, trong thúng chỉ có cái đấu mang theo. Vốn liếng chẳng có, bà đến chỗ người có gạo nhà đem bán để mua chịu và đem ra góc chợ chờ người khác đến bán kiếm chút lãi nhỏ...

 

Tan chợ, đầu đội thúng, tay cắp bó bã mía thu ở chợ về làm đồ đun. Bà Chiêm tuy không biết chữ, nhưng như con ong mật làm tổ xây đời, bà đã lo toan cho Chu Văn An học hành thành đạt, đậu Thái học sinh. Tiếng đồn khắp vùng, ông là người tài cao đạo trọng, nhiều người đã biện lễ (trầu, cau, chè) tìm đến xin thầy cho con mình được thọ giáo.
Ở thể kỷ 13 (triều Trần), không khí học tập khá sôi nổi, nhưng trường thi ít chỉ để giành cho các con vua, hoàng tộc, quan lại, quý tộc. Các làng có điều kiện mở trường trẻ do thầy đồ, thầy khóa, ông tú, ông cử... không ra làm quan mà ở nhà dạy học.

 

             Thầy Chu Văn An mở trường Huỳnh Cung ở một làng quê giáp với làng mẹ sinh sống. Trường của thầy có Hội đồng môn do thầy chọn trong các môn sinh. Và Hội đồng tôn suy tôn trưởng tràng là người giỏi giang và phẩm chất tốt. Do uyên bác, thầy Chu Văn An đủ sức dạy môn sinh học liền 10 năm để nộp quyển dự các kỳ thi hương, thi hội, thi đình, tức tú tài, cử nhân, tiến sĩ. Các môn sinh của thầy, sử sách còn ghi lại: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đỗ Thái học sinh đời vua Trần Anh Tông đã làm quan trọng triều đến chức Hành Khiển (Tể tướng).
Tiếng thơm của thầy Chu Văn An bay xa, lan tỏa đến cung đình, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán (đời vua Trần Minh Tông) đã tìm đến trường Huỳnh Cung để trò chuyện như tìm được người bạn tri kỷ và ướm lời mai mốt nhà vua sẽ ra chiếu chỉ vời ông vào triều dạy học. Thực lòng, Chu Văn An không muốn thay áo đổi giầy (cởi áo the mặc áo dụng xanh, bỏ đôi giầy cỏ xỏ đôi hia hài), mà mừng là, tuy triều Trần đã bắt đầu suy vi nhưng vẫn còn Hoàng thượng thấy được việc học là trọng để duy trì xã tắc, nên muốn góp công vun đắp. Vì ông nghĩ, đất nước thanh bình và thịnh trị điều cơ bản phải có minh quân. Là minh quân thì vị vua ấy phải học, tức là phải học đạo đức, học văn hóa để trị quốc và bình thiên hạ.
             Vào triều, Trần Minh Tông hai lần đến gặp, trò chuyện, thăm dò tài cao đức trọng của thầy Chu Văn An. Hoàng thượng nói: Trẫm nghĩ không sai khi tuyển khanh vào để cùng với các đại quan chèo lái quốc gia. Nhưng trước mắt, việc của khanh là dạy Thái tử và giữ chức Tư nghiệp.
              Minh Tông ủy thác cho thầy Chu dạy Trần Vượng. Qua quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Chu Văn An biết được những rắc rối trong việc lập Trần Vượng làm Thái tử, sau lên ngôi vua là Trần Hiến Tông, lúc 10 tuổi.
           Thầy Chu dạy Trần Vượng từ khi chưa được phong Thái tử. Đây là cậu hoàng tử chăm học, thông minh nên thầy gắng công dạy bảo, rèn dũa. Khi nhiếp chính Thái thượng Hoàng Minh Tông thấy lời lẽ của Hiến Tông rắn rỏi, nên đánh giá cao công lao dạy dỗ của thầy Chu Văn An.
           Mới ngoài 20 tuổi, Hiến Tông đã theo tiên tổ về nơi chín suối. Sau Hiến Tông là Dụ Tông. Ông vua này cũng được Chu Văn An dạy dỗ.
           Sống trong hoàng cung và được làm bạn với quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Chu Văn An hiểu rõ tình thế nguy ngập, suy vong của triều đại Hiển Tông, Dụ Tông. Và, nhìn lên từ đời Anh Tông, Minh Tông thấy trong triều đã nảy sinh những cận thần hèn kém, chuyên nghĩ cách làm thỏa mãn những thị hiếu của vua, còn những người thẳng thắng can ngăn thì bị cách chức. Anh Tông cách chức Phạm Mai, Minh Tông cách chức Nguyễn Trung Ngạn...
           Quan Tư đồ Trần Nguyên Đán thấy Chu Văn An kém vui, một hôm dù đã khuya, ông vẫn đến thăm thầy Chu và bày tỏ tâm can. Thấy có kẻ theo dõi, quan Tư đồ vội vã ra về. Còn lại một mình, Chu Văn An ngồi viết ''thất trảm sớ''. Ông cân nhắc từng chữ, từng tên người và sự việc, ý tứ chặt chẽ, tâm huyết sôi nổi, bày tỏ và hy vọng. Viết xong, ông đem đến để phòng riêng của Dụ Tông - nơi ông đặc cách đến dạy vua. Xong việc, ông thay quần đổi áo... và rời khỏi cung điện. Về thăm mẹ được ít ngày, nghĩ đến “Thất trảm sớ'' và sợ liên lụy cho mẹ, ông quyết định về sống ẩn dật ở Chí Linh, giao việc chăm sóc nuôi dưỡng mẹ cho một môn sinh mà ông có công nuôi dạy và được dân làng mời về dạy ở trường Huỳnh Cung. Dù thay tên là Tiều Ẩn (người kiếm củi ẩn dật) chỉ ít lâu sau, khắp vùng đồn đại tên tuổi thầy Chu Văn An. Người nọ mách người kia dắt con đến nhờ thầy dạy bảo. Vì vậy, ông lại mở trường dạy học. Những ngày thư nhàn, ông ngao du sơn thủy bầu bạn với non xanh nước biếc. Gặp lại Trần Nguyên Đán như gặp lại bạn bè tâm đắc keo sơn.

                Về đây ngoài việc dạy học, Chu Văn An còn viết sách làm thơ. Ông viết "Tứ thư thuyết ước” tổng kết bài giảng cùng phương pháp dạy. Về thơ, có "Quốc âm thi tập", ''Tiều ẩn thi tập”. Thời gian ông ở Chí Linh xảy ra việc Dương Nhật Lễ cướp ngôi Trần. Nhưng chỉ ít lâu sau, dưới sự chỉ huy của Trấn Thủ và chị gái là công chúa Thiên Ninh, lại được sự ủng hộ của Trần Nguyên Đán, Trần Ngạc … đã lấy lại được kinh đô Thăng Long. Trần Phủ lên ngôi, tức Trần Nghệ Tông, Chu Văn An chống gậy về triều chúc mừng. Và, sau đó một năm - năm Canh Tuất, ngày 28 tháng 11 (tức năm 1370), ông mất tại xã Kiệt Đắc, nay là xã Văn An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, thọ 78 tuổi.
               Trân trọng tài năng, nhân cách và sự cống hiến của ông, vua Nghệ Tông đã ban tên Thụy là Văn Trinh và cho người mang lễ vật đến viếng và cho thờ ông ở Văn Miếu. Ở núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương, nơi ông về sống ẩn và dạy học cũng có đền thờ, ghi 8 chữ: "Chu Văn Linh tiên sinh ẩn cư xứ". 

 

      Giai thoại về nhà giáo Chu Văn An

     Chu Văn An (1292 - 1370) người làng Văn Thôn, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì-Hà Nội) đương thời đã nổi tiếng là một nhà giáo tài đức, có nhiều học trò thành đạt. Đời vua Trần Minh Tông, ông được mời làm Tư nghiệp Quốc tử giám để dạy Thái tử học. Đến đời Trần Dụ Tông, triều chính suy vị, bị bọn gian thần lũng đoạn, ông dâng sớ Thất trảm (xin chém 7 kẻ nịnh thần). Vua không nghe, ông bỏ quan về ở ẩn. Với tài năng, đức độ và tính cương trực, ông được coi là tấm gương tiêu biểu cho nhà giáo Việt Nam.

                Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc

              Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong.

             (Cuối Trần đó là thời nào, ngâm vịnh rong chơi đâu phải thú vui hiền giả.

             Non phượng còn dấu nơi ẩn, núi sông mãi mãi ngắm nhìn phong cách triết nhân).

Đó là đôi câu đối mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục đối với Chu Văn An - nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối thời Trần.
Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370).
       Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.
            Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. Ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ, Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học, quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.

                     Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận.

                   Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô.

                   (Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.
                     Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa).

                   (Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An).


           Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.
          Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó.
           Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã giải thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được".
                                                                             
(Sưu tầm- Giới thiệu)